Quy định về đồng phục tại nhiều trường ở Mỹ khiến nhiều học sinh cảm thấy không an toàn.
Nữ sinh, trẻ em da màu không được hưởng lợi
Theo Trung tâm Thống kê giáo dục Mỹ, trong năm học 2019-2020, gần 20% trường học công lập tại Mỹ yêu cầu học sinh mặc đồng phục, 44% trường ban hành và thực hiện quy định nghiêm ngặt về đồng phục.
Trong khi đồng phục thường được cho rằng là công bằng và an toàn, nhiều nghiên cứu cho thấy đồng phục lại có tác dụng không đồng đều. Nhiều trường hợp học sinh nữ và học sinh da màu lại thấy ít an toàn hơn khi mặc đồng phục.
Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ Mỹ (GAO) ước tính 93% học khu tại Mỹ có một số loại quy định hoặc chính sách về trang phục, khoảng 60% trường yêu cầu đồng phục phải được may đo, điều này có thể cho phép nhân viên may đo đồng phục chạm vào học sinh.
"Do đó, học sinh, đặc biệt là các em gái, có thể cảm thấy bớt an toàn hơn ở trường", báo cáo nêu rõ.
Về mặt tài chính, quy định về trang phục cũng có thể là một thách thức với các gia đình có thu nhập thấp. Tuy nhiên, rất nhiều ý kiến cũng cho rằng đồng phục có thể hạn chế khoảng cách giàu - nghèo trong trường học.
Theo báo cáo mới từ Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ Mỹ (GAO), các quy định về đồng phục cũng ảnh hưởng nhiều đến các học sinh thuộc nhóm chủng tộc khác nhau.
Hơn 80% học khu cấm các trang phục liên quan đến văn hóa hay tôn giáo như mũ hay khăn quàng cổ. Trong khi đó, chỉ hơn 30% trường cho phép học sinh đội những trang phục trên vì tôn giáo, văn hóa hoặc y tế.
Báo cáo cũng cho biết nhiều học sinh da màu với văn hóa, tôn giáo khác nhau cũng thường xuyên bị phạt vì mặc kèm đồng phục những phụ kiện liên quan đến văn hóa, tôn giáo như đội khăn trùm đầu.
Theo luật liên bang Mỹ, quy định về trang phục không được phép phân biệt quá rõ ràng. Theo đó, quy định này chỉ có thể chỉ định các loại trang phục được chấp nhận nhưng không được phân biệt "dựa trên giới tính, chủng tộc, tôn giáo hoặc các đặc điểm được bảo vệ khác của học sinh", theo Liên minh Tự do Dân sự Mỹ (ACLU).
ACLU cũng ủng hộ việc học sinh được phép mặc quần áo phù hợp với nhận dạng và biểu hiện giới tính của họ. Theo đó, Văn phòng Quyền Công dân của Bộ Giáo dục Mỹ cho biết phân biệt đối xử dựa trên giới tính bao gồm phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục hoặc bản dạng giới. Vì thế, cơ quan này nghiêm cấm nghiêm cấm phân biệt đối xử dựa trên giới tính trong trường học.
Theo đó, các trường công lập không thể quy định học sinh nam không được mặc váy hay học sinh nữ không được mặc vest và thắt cà vạt.
Các trường công lập tại Mỹ không được phép quy định trang phục dựa trên giới tinh. Ảnh: Pexels.
Bà Lydia McNeiley, một cố vấn giáo dục ở Indiana, cho biết phụ huynh nên theo dõi chặt chính sách về đồng phục của trường và bày tỏ lo lắng nếu có với học khu. Ngoài ra, tiếng nói của học sinh cũng là chìa khóa tạo ra sự thay đổi.
"Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe góp ý vì mong muốn học sinh cảm thấy thoải mái và vui vẻ khi đến trường", bà nói.
Đối với nhà trường, bà McNeiley gợi ý các giáo viên nên xử lý kín đáo các vấn đề về đồng phục học sinh để không làm các em xấu hổ. Theo bà, điều này sẽ giúp ích rất nhiều trong việc xây dựng mối quan hệ tích cực giữa nhà trường với học sinh.
Bên cạnh đó, bà Courdin Mauldin, Trợ lý Giáo sư ngành Giáo dục, khuyến khích các giáo viên nên xem xét tác động của đồng phục lên học sinh cũng như ảnh hưởng của quy định về đồng phục lên văn hóa, truyền thống hay tôn giáo của các em.
Bà Mauldin cũng cho rằng các nhà quản lý trường học cần lắng nghe học sinh và thích nghi với môi trường thay đổi xung quanh họ. Sau đại dịch, xu hướng mặc đồng phục tại các công sở cũng đang dần ít hơn.
Một học khu công lập tại Mỹ gần đây đã thay đổi quy định về đồng phụ của mình. Từ việc yêu cầu học sinh phải mặc đồng phục: quần kaki và áo sơ mi có cổ màu trắng hoặc xanh thời điểm trước đại dịch, giờ đây, trường cho phép học sinh học sinh mặc quần áo thoải mái và thể hiện giới tính tự xác định của mình. Ngoài ra, học sinh có thể mặc trang phục tôn giáo "mà không sợ bị kỷ luật hoặc phân biệt đối xử".
"Dù không vui khi phải chọn đồ đi học nhưng em nghĩ mình và các bạn vui vẻ hơn nhiều khi không phải mặc đồng phục", Verta, một học sinh trong trường cho hay.
Sách về "người thầy xuất sắc nhất nước Mỹ"
Mục Giáo dục giới thiệu Escalante, cuốn sách về người được xem là "người thầy xuất sắc nhất nước Mỹ". Ông là giáo viên dạy Toán gốc Bolivia, đến Mỹ năm 34 tuổi. Ông vừa học, vừa làm nhiều việc để có chứng chỉ tiếp tục đứng trên bục giảng. Bằng phương pháp đặc biệt, thầy đã đào tạo hơn 400 học sinh ưu tú đỗ vào những trường đại học nổi tiếng thế giới.
Trang phục miền Bắc thời cận đại
(Đông Kinh nhân) - đồ quyển Thế giới nhân vật (世界人物圖卷)
Y phục truyền thống Việt Nam (còn gọi Việt Nam phục sức) bao gồm các loại y phục của người Việt và y phục cung đình.
Một số quan điểm khác[ai nói?] tổng quát các dân tộc đã sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay từ lâu đời, chẳng hạn như người Chăm-pa, người Khmer và các dân tộc thiểu số khác.
Trước thời Bắc thuộc, có sách ghi người Việt mặc áo cài bên trái,[1]. Kể từ thời tự chủ thế kỷ thứ 10 trở đi thì áo người Việt đại thể có ba loại căn cứ theo cách cắt cổ áo:[2]
Đàn bà còn dùng yếm một mảnh vải vuông che phần ngực, một góc cắt lẹm đi rồi đính hai dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính hai dải vải, gọi là dải yếm, dài đủ để quành ra sau lưng rồi buộc lại ở trước ngực. Khi ở nhà làm lụng, người đàn bà có khi chỉ mặc yếm.[4] Khi ra ngoài giao tiếp mới mặc thêm áo.
Ở phía dưới bụng thì ngày xưa đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Khố là mảnh vải hẹp mà dài. Người mặc quấn quanh bụng vài vòng rồi chèn từ phía trước bẹn ra sau cài chặt lại. Tích Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương đã nhắc tới việc trang phục dùng khố. Tuy nhiên, khẳng định này vẫn còn tranh cãi.[cần dẫn nguồn]
Người Việt mặc loại áo dài cổ tròn (viên lĩnh) 4 vạt, gọi là áo "tứ điên"; dưới thì vận thường đen. Đàn ông đàn bà đều có thể mặc vậy. Ngoài ra, còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên
ngoài hay mặc váy bên trong (với nữ) hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên mặc quần hay khố (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh. Sứ giả Triệu Nhữ Thích bình rằng lối ăn mặc người Việt thời bấy giờ (1125) không khác người Tống là mấy.[5] Nam đầu đội mũ đinh tự, nhìn như con ốc. Cả nam và nữ, quý tộc và thường dân đều đi đất và nhuộm răng đen.
Áo trực lĩnh phổ biến, dùng làm thường phục trong dân gian (mặc lót trong là 1 viên lĩnh đơn y hoặc yếm). Màu sắc áo cũng đã thành lệ: đàn ông thường dùng áo màu xanh, khi có việc trọng đại thì dùng màu đen, màu thẫm. Người làm ruộng thì dùng màu nâu. Bông vải là hàng chính. Chỉ người sang trọng mới dùng hàng tơ lụa. Quần thì chỉ có hai màu trắng và nâu. Họa hoằn những người giàu có hay già cả mới dùng quần màu đỏ.
Căn cứ theo minh họa trong sách Vạn quốc nhân vật chi đồ (1645) của Nhật Bản thì vẽ người đàn bà đội nón dâu (rộng), tóc dài, mặc váy ở dưới, phía trên mặc áo trực lĩnh, mặc yếm trong. Đàn ông thì búi tóc, mặc một loại rông cài bên phải.
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 18, chúa Nguyễn Võ Vương ở Đàng Trong có sắc quy định y phục trong Nam, nhất là lối ăn mặc của phụ nữ, bỏ váy mà mặc quần, còn áo thì cài khuy, bỏ lối thắt vạt.[1] Đàng Ngoài thuộc chúa Trịnh thì vẫn giữ áo tứ thân buộc vạt. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12. Áo tứ thân hình dạng tương đồng với áo Bối Tử thời Tống[6].
Trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú ghi nhận: "Từ thời Lê Trung Hưng về sau, các lễ lớn như vua lên ngôi, tiến tôn và ban chiếu, đều đội mũ Xung Thiên, mặc Hoàng Bào,..." [3].
Áo thời Lê không được ghi chép rõ về hoa văn, hiện vật duy nhất của Hoàng Bào thời Lê là từ áo bồi táng của vua Lê Dụ Tông thời Lê Trung Hưng, nhưng hoa văn rồng trên áo này đã theo kiểu "long vân đại hội", một dạng hoa văn rất phổ biến thời Minh mạt. Lúc này, đồ án rồng rất to trước ngực và sau lưng, ở trên vai là hình đồ án rồng tương tự nhưng kích thước nhỏ hơn, khắp xung quanh áo là hình mây cùng ngọn lửa. Có thể thấy, cục diện hoa văn này đã xa thời Minh sơ mà rất gần với thời Minh mạt, cho nên hoa văn cách thức của áo Bào Lê Dụ Tông chỉ biểu thị một giai đoạn Lê Trung Hưng, còn thời Lê Sơ có lẽ vẫn theo kiểu hình Đoàn Long.[3]
Thời Nguyễn thì nam giới cả hai miền Nam Bắc đã quen mặc áo ngũ thân (áo lập lĩnh may bằng năm khổ vải), thân áo dài quá đầu gối, tay áo hẹp. Đàn bà từ Hoành Sơn vào Nam cũng mặc áo ngũ thân nhưng khác áo đàn ông chút ít với thân áo may dài hơn; gấu áo dài quá bắp chân,[2] dưới hạ y mặc quần. Đàn bà từ Hà Tĩnh trở ra vẫn mặc áo tứ thân (giản lược về màu sắc) và mặc váy.
Lễ phục thì vẫn còn dùng áo giao lĩnh, nhưng khoác ra bên ngoài cùng khi hành lễ, gọi là áo thụng hay bổ phục[2]
Áo Nhật bình (xẻ trước ngực) với tay áo rộng là lễ phục khoác ra ngoài của nữ giới quyền quý trong chốn cung đình.[2] Các thiếu nữ trong gia đinh quý tộc khi xuất giá cũng được mặc áo nhật bình nhưng các hoa văn giản lược hơn.
Áo viên lĩnh được sử dụng làm triều phục các quan từ Lục phẩm trở lên.
Về màu sắc thì người dân quê làm ruộng, quần áo hay nhuộm màu nâu hay đen, chỉ những khi nhàn nhã mới mặc màu bạch hay màu tươi như yếm màu hồng, màu đào.[7] Đàn ông mặc quần lá tọa. Quần này may sâu đũng để có thể kéo cạp quần lên cao hay xuống thấp để cho ống quần dài hay ngắn tùy ý; cạp quần buông loà xòa, buộc bằng thắt lưng ở bụng.
•Thời Lý, Trần thì tóc ngắn, đầu trần. Đàn bà để tóc dài hơn đàn ông độ 1 tấc [6].Đàn ông dùng khăn quấn đỉnh đầu kín, không lộ tóc
•Thời Lê: khi đối diện người có địa vị cao hơn thì để tóc dài chuốt sáp gọn ra sau lưng.Mọi người chỉ búi tóc chuy kế khi làm điền, làm việc nặng, hoặc đi sứ
Thúc phát của nữ giới xuất giá sẽ 2 kết (tạo hình như tai thỏ) để cài trâm lên ước phát (1 mảnh vải hoặc búi tóc có trang sức ngọc hoặc kim loại), buộc phần dưới của hợp phát rồi để thả 2 đầu ách ti (扼臂) (lụa buộc kết) xuống. Cùng với châu xuyến và san hô (đã tạo thành hình giống đinh ba) thả 2 đầu song song ách ti
Thúc phát của Bé gái (chưa cập kê) tạo kiểu nha đầu (dài dọc bên tai)để thả 1 phần tóc sau gáy.Khi được tuyển vào cung đình vẫn để nha đầu.Gia nhân kết 1 búi to phía trước (gần như tranh Boxer Codex). Thị nữ cung đình sau tập sự búi hình thỏ. Nữ quan, quý tộc búi ước phát cài trâm
Phụ nữ, đàn ông tùy địa vị (đinh tự cân, bao đính cân, trúc quan), tuổi tác (bức cân, bát tiên cân)sẽ dùng khăn phù hợp theo điển lệ. Quân đội triều đình trước khi đội các loại lạp thì phải đeo trách (mao kê cân) coi như tiện phục
•Thời Nguyễn: bé gái kết nha đầu, bé trai đeo khăn ngũ sắc trùm kín tai.
Đàn bà phía nam sông Gianh kết tóc cài trâm, phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn trắng. Hôn lễ thì kết kim ước phát. Đàn ông thường búi tóc, búi tó to được cho là đẹp. Khăn là một mảnh vải gồm 12, 13 vuông vải bằng nhiễu hay lượt khâu lại thật dài dùng quấn quanh đầu, giữ búi tóc cho chặt. Người đội khăn quấn năm hay bảy vòng. Số năm tượng trưng cho ngũ thường và số bảy là bảy vía của người đàn ông. Thế kỷ 20 ta chế khăn đóng sẵn, gọi là khăn đóng hay khăn xếp
Khăn đàn ông thì chỗ chân tóc trên trán có thể xếp thành dạng chữ "nhất" (Hán Tự: 一) hay chữ "nhân" (人)[2] với nếp trái đè lên nếp phải[8] tạo bằng hai vòng quấn đầu tiên.
Đàn bà Bắc Bộ cuộn tóc vào trong khăn rồi quấn thành một vòng quanh đầu.[1] Hình dáng búi tó thông tục gọi là "búi tó củ hành" hay "búi tó củ kiệu".[9] Phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn đen mỏ quạ.
Người Việt còn dùng nhiều loại nón như nón ba tầm, nón ngựa, nón cụ
Sách Giao Châu ký của Trung Hoa thì kể rằng Bà Triệu (thế kỷ thứ 3) chân đi guốc bằng ngà voi.
Người nông thôn thường đi chân đất. Khi có việc thì mới xỏ guốc bằng gỗ hay gộc tre, buộc quai dọc tết bằng dây mây, sau mới dùng quai ngang bằng da. Guốc phụ nữ đẽo thon hơn, sơn đen có hoa văn.Guốc đàn ông to bản, tục gọi là guốc xuồng. Gỗ thường để mộc nguyên màu không sơn phết nên gọi là guốc mộc[10]
Ở thành thị đàn ông lẫn đàn bà còn dùng lí (履) (dép đơn giản nhất chỉ là một lớp da trâu, có khi đan bằng sơ dừa hay bằng cói, không có đế).Người xỏ ngón chân vào lỗ khuyết ở đằng mũi. Ở mu bàn chân có thêm một quai thẳng ngang như chữ "nhất" nên gọi là dép một.[4]
Sang hơn thì đàn bà đi lí đóng bằng bốn năm lớp da trâu. Đầu mũi lí vót nhọn và dùng đanh tre uốn cao vồng lên che hẳn đầu ngón chân, xỏ ngón chân thứ hai[11] vào vòng bằng da ở đằng mũi.Vì loại lí này nặng nên không thể đi nhanh[4]
•Thời Lê: ca nương, hoa nương, tân nương, quý tộc dùng tích (潟) (loại hài vếch lên có hoa văn) khi lễ
•Thời Nguyễn, Tân nương (Bắc bộ) xỏ guốc cong có 2 đế cao vếch lên (tựa như tích).Phía nam sông Gianh, tân nương xỏ hài (鞋) đầu nhọn
Nữ quý tộc xỏ hài vếch nhọn, cung nhân xỏ guốc sơn son thếp vàng khi Công phục. Nữ quý tộc xỏ hài đế cao (thon hơn của nam) khi tiện phục.
Đàn ông xỏ hài Gia Định. Một đặc danh nữa là dép da Chi Long, gót cao 2–3 cm, mũi ôm lấy mu bàn chân và chạy bọc quành ra đến gót, dép sơn đen hoặc đỏ[12], mặc khi công phục. Hài mõm ếch khi tiện phục
Tế lễ Thời Nguyễn, dân gian dùng áo thụng, đội phong cân.
Tang lễ dùng vải sô trắng, nam thắt khăn trắng chống trượng đi đầu. Nữ chùm mền trắng hình dạng theo tang chế.
Lễ phục cung đình có quy chế nghiêm ngặt.
Văn quan dùng bì ngoa mũi tròn, võ quan dùng bì ngoa mũi nhọn
Nữ nhân hoàng tộc dùng phụng tích khi lễ phục
Áo dài được cách tân dựa theo áo lập lĩnh (ngũ thân) tay chẽn. Thập niên 1930 họa sĩ Cát Tường trong nhóm Tự lực Văn đoàn đã cách tân áo dài tân thời theo hướng tây hóa.
Áo dài trắng đã trở thành trang phục cho học sinh trung học ở Việt Nam. Một số nữ nhân viên, giáo viên, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc áo dài khi làm việc.